This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2000

Rối loạn phóng noãn cản trở quá trình thụ thai tự nhiên

Thông thường, mỗi tháng sẽ có một nang trứng trong buồng trứng của người phụ nữ phát triển đến kích cỡ nhất định và rụng (hay còn gọi là hiện tượng phóng noãn). Rối loạn phóng noãn là hiện tượng trứng rụng không đều đặn, gây cản trở quá trình thụ thai tự nhiên.

Các nhân tố ảnh hưởng đến rối loạn phóng noãn

Rối loạn phóng noãn là một bệnh lý liên quan trực tiếp đến sự rụng trứng. Nguyên nhân do chu kỳ buồng trứng phức tạp đến mức một thay đổi nhỏ cũng có thể làm phá vỡ chu kỳ và cản trở quá trình phóng noãn. Trong hầu hết trường hợp chậm có con do rối loạn phóng noãn, nguyên nhân chủ yếu là mất cân bằng nội tiết tố, tức cơ thể sản xuất nội tiết tố không đủ hoặc không đúng lúc. Thiếu nội tiết tố nữ và sự thay đổi chu kỳ buồng trứng làm ảnh hưởng đến chu kỳ kinh nguyệt và giải phóng noãn hằng tháng. Việc tăng cân hoặc giảm cân quá nhiều cũng có thể gây ảnh hưởng đến quá trình phóng noãn. Khi cơ thể bị căng thẳng, stress với cường độ làm việc quá mức cũng có thể dẫn tới hiện tượng rối loạn phóng noãn khiến chu kỳ kinh nguyệt trong thời điểm đó trở nên thất thường và phụ nữ sẽ không thể thụ thai trong thời điểm này.Sơ đồ rụng trứng.

Sơ đồ rụng trứng.

Các nhân tố chủ yếu dẫn đến rối loạn phóng noãn bao gồm: Rối loạn chức năng buồng trứng: não không tiết chế các chất nội tiết để kích thích buồng trứng hoạt động. Rối loạn hoạt động tại buồng trứng như các bệnh nhân có hội chứng buồng trứng đa nang. Buồng trứng bị suy, không còn nang noãn như ở phụ nữ lớn tuổi, các phụ nữ có tiền căn phẫu thuật bóc u buồng trứng hay cắt buồng trứng, các trường hợp xạ trị hay hóa trị ung thư…

Tình trạng rối loạn phóng noãn là một trong những nguyên nhân phổ biến nhất dẫn đến vô sinh, hiếm muộn ở nữ giới. Khi buồng trứng đều đặn phóng noãn, nội tiết do buồng trứng tiết ra sẽ làm cho hiện tượng xuất huyết tử cung diễn ra theo chu kỳ hằng tháng (kinh nguyệt). Rối loạn phóng noãn thường dẫn đến tình trạng kinh nguyệt không đều hoặc hành kinh kéo dài nên rất khó thụ thai. Vì vậy, rối loạn phóng noãn là nguyên nhân chính dẫn đến vô sinh hiếm muộn.

Rối loạn phóng noãn nhiều khi không có biểu hiện triệu chứng đặc hiệu và chỉ được phát hiện thông qua siêu âm noãn. Tuy nhiên, đa số trường hợp rối loạn phóng noãn thường được phát hiện qua một số biểu hiện rõ rệt như: rối loạn kinh nguyệt, không có kinh nguyệt trong một thời gian dài, độ nhầy tử cung có sự thay đổi bất thường, suy giảm ham muốn tình dục, béo phì, rậm lông… Khi phát hiện thấy có những bất thường trên, chị em nên đi khám chuyên khoa để điều trị kịp thời. Chỉ khi xác định rõ được nguyên nhân nào dẫn đến rối loạn phóng noãn mới có thể tiến hành điều trị hiệu quả nhất.

Kích thích buồng trứng - giải pháp điều trị hiếm muộn cho các trường hợp rối loạn phóng noãn

Đa số các trường hợp rối loạn phóng noãn việc điều trị là phục hồi chức năng phóng noãn của buồng trứng, trong đó phải sử dụng các loại thuốc kích thích sự phát triển của nang noãn buồng trứng. Thông thường, tỷ lệ có thai đạt được sau mỗi chu kỳ kích thích buồng trứng khoảng 30%.

Kích thích buồng trứng (kích trứng) là một trong những biện pháp hỗ trợ sinh sản cho những trường hợp hiếm muộn do rối loạn phóng noãn (rụng trứng) ở nữ. Kích trứng là phương pháp sử dụng các loại thuốc nội tiết uống hoặc tiêm nhằm tạo các nang noãn trưởng thành, tăng khả năng phóng noãn (rụng trứng) để thụ thai hoặc sử dụng cho các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Tuy nhiên, cũng nhiều trường hợp gặp những tác dụng không mong muốn, nhất là hội chứng quá kích buồng trứng.

Các biến chứng có thể xảy ra khi kích trứng: Chảy máu âm đạo, đau trong âm đạo và có thể gây nhiễm trùng nếu dụng cụ không được khử trùng cẩn thận. Có thể gây ra hội chứng quá kích buồng trứng, hội chứng buồng trứng đa nang hoặc làm teo buồng trứng, suy buồng trứng, thậm chí có thể gây nguy cơ ung thư buồng trứng. Bên cạnh đó, nó còn làm tăng nguy cơ đa thai và có thể gây vô sinh do hết nang nguyên thủy. Dù đã có những bước tiến mới trong điều trị hiếm muộn, liệu pháp kích thích buồng trứng vẫn là một hành trình đòi hỏi không ít sự kiên nhẫn, quyết tâm của người bệnh. Người phụ nữ cần chuẩn bị tốt về sức khỏe và ổn định tâm lý, phải tìm hiểu thông tin, sắp xếp thời gian phù hợp với việc điều trị bởi phương pháp này cần một quá trình dài và tốn kém. Trong quá trình điều trị, bệnh nhân rất cần phải có sự theo dõi cẩn thận để tránh các biến chứng không mong muốn.

BS. SONG NHI

Những thay đổi cơ thể khi mang thai khiến bà bầu “xấu hổ”

Mùi âm đạo

Phần lớn phụ nữ mang thai sẽ có mùi cơ thể mạnh hơn khi mang thai. Đôi khi, phụ nữ mang thai sẽ có mùi âm đạo dễ nhận thấy. Đó là do sự gia tăng hàm lượng oestrogen trong ba tháng cuối khiến âm đạo tiết dịch nhiều hơn gây ra mùi khó chịu.

Trướng bụng và đầy hơi

Trong thai kỳ, bạn sẽ trải qua những thay đổi hormon. Nó sẽ làm giảm tốc độ tiêu hóa bằng cách không chỉ gây trướng bụng mà còn gây đầy hơi cho thai phụ. Tử cung phát triển có thể gây áp lực lên dạ dày, điều này khiến tình trạng trở nên tồi tệ hơn. Bạn có thể bị ợ hơi và trung tiện.

Rỉ nước tiểu

Nhiều phụ nữ mang thai khi hắt hơi, ho hay cười có hiện tượng rỉ nước tiểu. Tình trạng này có thể khiến các bà bầu xấu hổ.

Ngực tiết sữa

Ngực tiết sữa là dấu hiệu cơ thể bạn đã chuẩn bị sẵn sàng cho em bé. Hàm lượng cao hormon prolactin đặc biệt vào cuối thai kỳ có thể khiến chất lỏng như sữa chảy ra từ núm vú, chủ yếu khi bị kích thích.

Trĩ

Trĩ là tình trạng phổ biến của phụ nữ mang thai. Chúng thường xảy ra cùng với táo bón và căng thẳng. Nó có thể thai phụ cảm thấy mệt mỏi cùng với đau cũng như ngứa hậu môn. Cảm giác táo bón cũng có thể khiến bạn bị kích thích và có thể tạo ra những khoảnh khắc “đỏ mặt” trong thai kỳ.

Hay phải vào nhà vệ sinh

Mang thai có thể gây ra tình trạng táo bón tại một số thời điểm. Hormon thai nghén khiến đường tiêu hóa bị ảnh hưởng, điều này có thể gây rối loạn tiêu hóa trong khoảng 8 tuần.

Nổi mụn

Mặt bị nổi đầy mụn là tình trạng phổ biến, đặc biệt là trong 3 tháng đầu. Các bà bầu có thể bị nổi mụn như những thiếu nữ tuổi dậy thì.

Ngực to hơn

Khi bạn mang thai, ngực sẽ phát triển hơn để chuẩn bị sẵn sàng cho thiên chức làm mẹ. Khi ngực phát triển, khu vực nhạy cảm này sẽ bắt đầu căng hơn, tạo ra cảm giác ngứa. Nhiều phụ nữ không thể hết ngứa ở núm vú bị sưng lên.

Nôn và buồn nôn

Nôn và buồn nôn khiến bạn trở nên ốm yếu. Gần 85% phụ nữ bị buồn nôn trong thai kỳ. Thai phụ có thể cảm thấy buồn nôn và nôn ở bất cứ nơi nào.

Thay đổi tâm trạng

Lo lắng về tương lai và việc sắp trở thành mẹ là tâm trạng rất thường trong thai kỳ. Tâm trạng lo lắng cũng có thể dẫn đến giấc ngủ chập chờn và những giấc mơ kỳ lạ. Phụ nữ mang thai bắt đầu cảm thấy bất an khiến họ có những phản ứng khác thường bất chấp xung quanh

BS Cẩm Tú

(Theo Boldsky/ Univadis)

Lạc nội mạc tử cung

(Nguyễn Văn V. - Cà Mau)

Lạc nội mạc tử cung là tình trạng mà trong đó tổ chức tuyến hay mô đệm của nội mạc tử cung, lạc chỗ di chuyển có mặt ở ngoài buồng tử cung và gây bệnh; có thể xảy ra bất kỳ nơi nào trên cơ thể nhưng hay gặp nhất là ở phúc mạc vùng chậu, dây chằng tử cung cùng, bề mặt buồng trứng hay mô đệm của buồng trứng.

Lạc nội mạc tử cung

Bệnh được mô tả từ năm 1800, nhưng sự hiểu biết về lạc nội mạc tử cung chỉ được thừa nhận trong thế kỷ qua, theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học, tại Pháp thì có khoảng 1 - 2% số phụ nữ mắc bệnh, và có khoảng 15 - 20 % phụ nữ phải cắt bỏ tử cung; có tới 50% bệnh liên quan đến vô sinh, có một số trường hợp thường biểu hiện lành tính, chỉ ảnh hưởng tới sinh hoạt, lao động, học tập; bệnh có thể khỏi hẳn khi người phụ nữ có thai và sẽ khỏi dứt điểm khi người phụ nữ mãn kinh, vì khi ấy buồng trứng không còn hoạt động nội tiết nữa. Đây là một bệnh lý phụ thuộc nội tiết estrogen, có nhiều giả thuyết được đưa ra để giải thích về lạc nội mạc tử cung như:

- Sự chuyển dời lạc chỗ của mô lạc nội mạc tử cung, các tế bào lạc nội mạc tử cung di chuyển trong vòng trào ngược của máu kinh, trong vòng tuần hoàn toàn thân hoặc theo đường bạch huyết đến các vị trí khác ngoài buồng tử cung và ghép lên các vị trí đó.

- Giả thuyết về miễn dịch, giả thuyết về chuyển sản của biểu mô phúc mạc thành mô lạc nội mạc tử cung…

Về triệu chứng, người bị lạc nội mạc tử cung có thể biểu hiện với nhiều triệu chứng khác nhau, tùy cơ quan mà tế bào nội mạc tử cung đi tới; chẳng hạn như lạc nội mạc tử cung ở thận thì có triệu chứng đái ra máu, ở phổi có thể ho ra máu. Tuy nhiên, phần lớn, lạc nội mạc thường xảy ra trong cơ tử cung và vùng bụng dưới, nên triệu chứng chủ yếu vẫn là đau bụng khi hành kinh, đau muộn vào ngày thứ hai hoặc ba của kỳ kinh và bệnh càng lâu ngày thì đau thường đau càng nhiều hơn; bệnh rất dễ chẩn đoán nhầm với một số trường hợp đau bụng ngoại khoa khác như: đau dữ dội khiến bác sĩ ngoại khoa dễ nhầm với đau do viêm phúc mạc, đau hố chậu phải dễ nhầm với bệnh lý viêm ruột thừa...

Về chẩn đoán thường dựa vào triệu chứng lâm sàng, nhưng được khẳng định qua nội soi và giải phẫu bệnh lý, nhất là trường hợp vô sinh kèm theo.

Về điều trị, hiện tại vẫn chưa có một giải pháp điều trị nào đem đến kết quả như mong đợi, trước mắt điều trị nội khoa vẫn là giải pháp căn bản, thuốc thường dùng thuộc nhóm Danazol với tên biệt dược là Anargil, liều dùng tùy theo mức độ tổn thương, thường uống 200 - 800mg /ngày, tối đa thời gian là 9 tháng, sau đó đánh giá lại kết quả; ngoài ra có thể dùng thuốc ngừa thai khác như: Orgametril, Duphaton, Norcolut, Primolut-N.. uống 1 - 2 viên ngày, uống ít nhất là 6 tháng, mục đích để ức chế hành kinh; tuy nhiên các nhóm thuốc trên cần được chỉ định của bác sĩ chuyên khoa, không tự ý sử dụng, vì thuốc có nhiều tác dụng phụ; về điều trị ngoại khoa, chỉ áp dụng khi bệnh nhân lớn tuổi hoặc không còn hy vọng có con, hay vì những tổn thương lạc nội mạc tử cung quá nặng.

Tóm lại, lạc nội mạc tử cung đến nay vẫn còn là một bí ẩn, chưa đến hồi kết thúc, bệnh biểu hiện thường đa dạng, trong đó đau bụng là triệu chứng thường gặp, đau vùng dưới rốn, đau theo chu kỳ kinh và có xu hướng tăng dần; đau khi giao hợp sâu, xảy ra trong nửa sau của chu kỳ kinh nguyệt; ra máu bất thường trong chu kỳ kinh nguyệt, có thể xảy ra ở ngoài cơ quan sinh dục và bệnh có liên quan đến tình trạng vô sinh.

BS.CKI. TRẦN QUỐC LONG

Đau bụng “ngày ấy”, vì sao?

Trong một chu kỳ kinh nguyệt, sự thay đổi nội tiết trong cơ quan sinh sản của phụ nữ dễ gây các cơn đau bụng dưới cho chị em. Dựa vào thời điểm xuất hiện cơn đau sẽ biết đau vì nguyên nhân nào, ảnh hưởng ra sao. Các cơn đau liên quan đến chu kỳ kinh nguyệt thông thường gồm:

Đau trước khi hành kinh: là một dấu hiệu “hội chứng tiền kinh nguyệt”. Đau kèm với căng tức vú, đôi khi nhức nửa đầu, tính tình trở nên nóng nảy, dễ bực dọc, tăng cân nhẹ, cảm giác bụng to ra và như có khối gì nén xuống…Nguyên nhân của hội chứng này là sau khi trứng rụng có sự giảm tiết progesteron - một hormon có vai trò chuẩn bị niêm mạc để trứng được thụ tinh làm tổ và giúp cho trứng phát triển. Các triệu chứng kể trên đều mất đi khi bắt đầu hành kinh.

Xuất hiện cơn đau giữa chu kỳ kinh: là hiện tượng sinh lý bình thường. Đó là cơn đau bụng do rụng trứng. Nang trứng phình to trước thời điểm phóng noãn. Vì nang noãn lớn lên ở cả 2 buồng trứng cho nên đau có thể xảy ra đồng thời ở cả 2 bên hoặc chỉ 1 bên. Hơn nữa do vỏ buồng trứng phải rách để noãn thoát ra, vì thế, chính sự phóng noãn đã gây đau ở một số phụ nữ. Đôi khi cơn đau này kèm ra nhiều chất xuất tiết âm đạo có màu trắng hay lẫn máu, thường gọi là “hành kinh ngày thứ 15”. Chỉ cần nghỉ ngơi là sẽ khỏi đau, nếu nghỉ ngơi mà không đỡ thì có thể đau do nang ở buồng trứng, cần đi khám phụ khoa.

Cơn đau trong khi hành kinh: hay còn gọi là thống kinh. Đau có tính chất lan tỏa xuống âm hộ, đôi khi ra vùng thắt lưng hay khắp vùng bụng, có thể đau cấp tính, kèm buồn nôn hay nôn. Đó là cơn đau liên quan đến hiện tượng tăng co bóp của lớp cơ ở thành tử cung. Với trường hợp có u xơ tử cung nằm ở lớp cơ thành tử cung thì cơn đau càng dữ dội và sẽ hết sau khi sạch kinh.

Cơn đau xuất hiện sau khi sạch kinh: Phải nghĩ ngay đến bệnh lạc màng trong của tử cung (lạc nội mạc tử cung). Trong lòng tử cung có xuất hiện lạc chỗ các mô như các ống tuyến, mô liên kết và một số sợi cơ trơn. Cơn đau này thường xuất hiện ở các phụ nữ trẻ.

Đau trước khi hành kinh, hay đôi khi trong lúc rụng trứng và chỉ mất đi ở cuối kỳ kinh nguyệt: Đó là cơn đau trong bệnh loạn dưỡng buồng trứng. Bệnh này gây nên những biến đổi chức năng của buồng trứng, làm rối loạn hiện tượng tiết hormon.

Các cơn đau bụng liên quan chu kỳ kinh nguyệt thường gây khó chịu cho chị em nhưng không nguy hiểm và nghỉ ngơi hoặc làm việc nhẹ nhàng thì sẽ hết đau. Nếu các cơn đau có tính chất dồn dập với mức độ ngày càng tăng, kèm ra máu thì chị em cần đi khám bệnh ngay, bởi có thể liên quan bệnh lý nghiêm trọng hơn, cần được điều trị kịp thời.

BS. Song Nhi

Chửa trứng và những hệ lụy

Chửa trứng là tình trạng thai nghén bất thường, trong đó một phần hay toàn bộ bánh rau bị thoái hóa thành các túi chứa dịch to, nhỏ, dính vào nhau thành từng chùm giống như trứng ếch. Chửa trứng đa số là lành tính nhưng nếu không theo dõi và điều trị đúng thì những hệ luỵ của nó là khó lường vì có khoảng 10 - 30% các ca chửa trứng có thể gây biến chứng nguy hiểm thậm chí ác tính là ung thư tế bào nuôi.

Nguyên nhân gây chửa trứng

Cho đến nay, y học vẫn chưa tìm ra được chính xác nguyên nhân gây chửa trứng. Tuy nhiên, những nghiên cứu khoa học cho thấy có thể do sai sót của yếu tố di truyền trong quá trình thụ tinh đã dẫn đến những bất thường ở bộ nhiễm sắc thể. Bên cạnh đó phải kể đến một số yếu tố thuận lợi: chửa trứng thường gặp ở phụ nữ trên 40 tuổi hoặc dưới 20 tuổi, những người có thai nhiều lần, bất thường ở dạ con, những người có mức sống thấp, chế độ dinh dưỡng không đầy đủ như thiếu các chất dinh dưỡng như đạm, acid folic vitamin A...

Dấu hiệu nhận biết

Ban đầu, người bị chửa trứng cũng có biểu hiện mang thai giống như những trường hợp mang thai bình thường khác, trước hết là tắt kinh, sau đó là nghén. Tuy nhiên, người chửa trứng thường nghén rất nặng, nôn nhiều, ăn vào lại nôn, nôn ra mật xanh, mật vàng, người gầy sút. Một số trường hợp còn bị phù và tăng huyết áp. Bên cạnh nghén nặng, thai phụ còn bị ra máu âm đạo (hay xảy ra từ tuần thứ 6 đến tuần thứ 16 của thai kỳ), máu đen hoặc đỏ, dai dẳng, ít một, có thể tự cầm trong một thời gian ngắn. Do mất máu nên thai phụ mệt mỏi, xanh xao, niêm mạc nhợt, hay bị hoa mắt chóng mặt. Một triệu chứng điển hình nữa là tử cung của người chửa trứng to không tương xứng với tuổi thai, có trường hợp chửa trứng mới 2-3 tháng mà tử cung đã to như người có thai bình thường 5-6 tháng. Tuy vậy, khi sờ nắn bụng thai phụ thì thấy mềm và không thấy khối thai, nếu làm siêu âm thì không thấy âm vang thai mà chỉ thấy hình ảnh của các túi dịch.

Hình ảnh chửa trứng đại thể.

Mặt khác, các biểu hiện của chửa trứng rất đa dạng, dễ nhầm với một số bệnh lý sản phụ khoa khác như thai chết lưu, u xơ tử cung, chửa ngoài tử cung... Do đó, để chẩn đoán chính xác bệnh phải khám chuyên khoa sản, làm một số xét nghiệm như siêu âm bụng, định lượng HCG, estrogen máu, làm công thức máu, chụp Xquang bụng...

Hệ lụy do chửa trứng

Trong quá trình tiến triển của chửa trứng dễ xuất hiện các biến chứng rất nguy hiểm như sẩy thai trứng gây băng huyết nặng hoặc thủng tử cung do thai trứng ăn sâu vào lớp cơ tử cung. Khoảng 10 - 30% các ca chửa trứng có thể gây biến chứng nguy hiểm thậm chí ác tính là ung thư tế bào nuôi. Ung thư nguyên bào nuôi thường xâm lấn sâu vào lớp cơ tử cung gây hoại tử chảy máu và di căn xa đến các phủ tạng khác của cơ thể như gan, phổi, não, làm việc điều trị rất khó khăn.

Điều trị chửa trứng thế nào?

Cần phải nạo hút thai trứng sớm để phòng sẩy thai gây băng huyết. Sau 2 - 3 ngày lại phải nạo lại lần thứ hai và sau nạo phải dùng kháng sinh để phòng nhiễm khuẩn. Riêng đối với phụ nữ trên 40 tuổi hoặc đã có đủ con không muốn có con nữa thì có thể áp dụng biện pháp cắt toàn bộ tử cung mà không cần nạo trứng trước. Mục đích của cắt tử cung là làm giảm nguy cơ biến chứng thành bệnh ung thư tế bào nuôi. Một điểm cần lưu ý nữa là sau khi nạo thai trứng thì bệnh nhân phải được theo dõi ngoại trú và khám định kỳ trong thời gian ít nhất là hai năm theo chỉ định của bác sĩ. Cụ thể: phải làm xét nghiệm máu, nước tiểu 2 tuần/lần cho đến khi lượng HCG trở về bình thường. Khi HCG đã về mức cho phép, bệnh nhân vẫn phải tiếp tục thử nước tiểu 4 tuần/lần trong thời gian 6 tháng, cùng với việc làm các xét nghiệm khác và siêu âm nếu cần. Mục đích là để phát hiện và xử lý kịp thời các biến chứng của chửa trứng. Trong thời gian theo dõi, bệnh nhân không được có thai, chỉ sau hai năm theo dõi mà không thấy có biến chứng gì thì mới nên có thai lại. Và lần có thai sau thời hạn hai năm này cũng phải được khám và theo dõi chặt chẽ.

Khoảng 90% trường hợp thai trứng bắt nguồn từ người cha và 10% từ người mẹ. Nếu phụ nữ mang thai trên 35 tuổi, quá trình thụ tinh dễ gặp bất thường. Bình thường, chửa trứng không nguy hiểm, vì khoảng 80% chửa trứng là lành tính, bệnh khỏi sau khi nạo lấy hết nhau thai hoặc cắt dạ con ở người không có nhu cầu sinh đẻ nữa. Khoảng 10-15% chửa trứng trở thành loại xâm nhập, bệnh ăn sâu vào thành dạ con gây chảy máu và các tác hại nguy hiểm khác. Khoảng 2-3% chửa trứng trở thành ung thư nhau thai. Khi đã thành ung thư nhau thai, bệnh phát triển nhanh, lan rộng, di chuyển tới các nơi khác như phổi, não, gan... gây hậu quả khó lường.

BS. Phạm Minh Nguyệt

Tập thể dục tốt cho người sống sót sau ung thư vú

Các nhà nghiên cứu Canada đã phân tích 67 bài báo được công bố để xem thói quen nào tạo khác biệt lớn nhất trong việc giảm nguy cơ tái phát ung thư vú hoặc tử vong.

Tiến sĩ Ellen Warner, bác sĩ chuyên khoa ung thư tại Trung tâm ung thư Sunnybrook Odette và là giáo sư tại Đại học Toronto cho biết, tập thể dục mang lại lợi ích lớn nhất, giúp giảm khoảng 40% nguy cơ tử vong do ung thư vú.

Phụ nữ đáp ứng mức độ tập thể dục được khuyến nghị có mức giảm nguy cơ cao hơn. Các nhà nghiên cứu khuyến nghị tập thể dục ít nhất 30 phút với cường độ vừa phải ít nhất 5 ngày/tuần hoặc 75 phút tập luyện gắng sức kết hợp với 2-3 bài tập tăng sức bền mỗi tuần.

Ngoài tập thể dục, tổng quan cũng phát hiện ra rằng, tăng hơn 10% trọng lượng cơ thể sau khi có chẩn đoán liên quan với tăng nguy cơ tử vong. Không có chế độ ăn đặc trưng nào được phát hiện là tốt hơn trong việc giảm nguy cơ tái phát ung thư vú.

Nghiên cứu về việc cai thuốc lá và tái phát ung thư vú cũng chưa đưa ra kết quả, tuy nhiên các nhà nghiên cứu cho rằng, bỏ thuốc lá là cần thiết đối với sức khỏe tổng thể. Ngoài ra, bổ sung vitamin C có thể giúp ích, và vitamin D cũng giúp duy trì sức khỏe xương, vốn bị tác động bởi liệu phát hóa trị và hormone.

Còn chưa rõ tại sao tập thể dục mang lại nhiều lợi ích như vậy cho bệnh nhân ung thư vú. Song các nhà nghiên cứu cho rằng, những người chăm tập thể dục thường có lối sống lành mạnh. Tập thể dục cũng giúp giảm tác dụng phụ từ liệu pháp hormone và có tác dụng chống viêm.

Các kết quả tổng quan được đăng trên tạp chí CMAJ (Canadian Medical Association Journal) ngày 21/2.

BS P.Liên

(Theo Healthday)

Những bài thuốc tự nhiên giúp điều hòa kinh nguyệt

Gừng

Gừng là bài thuốc dân gian có tác dụng giảm đau tuyệt vời và giúp điều hòa kinh nguyệt. Gừng kích thích kinh nguyệt, điều tiết lưu thông máu trong kỳ kinh bị chậm. Lấy một mẩu gừng chứng một đốt ngón tay, đập dập và đun sôi trong nước khoảng 5-7 phút. Thêm một chút đường hoặc mật ong tùy thích. Uống 3 lần mỗi ngày sau bữa ăn trong ít nhất 1 tháng bạn sẽ thấy hiệu quả.

Hạt vừng với đường thốt nốt

Hạt vừng có tác dụng cân bằng hormone. Hợp chất lignans trong hạt vừng giúp loại bỏ hormon dư thừa. Mặt khác đường thốt nốt giúp kinh nguyệt lưu thông nhờ tác dụng làm ấm. Khi kết hợp cùng nhau, hạt vừng và đường thốt nốt giúp điều hòa kinh nguyệt. Rang khô 5 thìa hạt vừng. Cho thêm một thìa đường thốt nốt vào và xay thành bộn mịn. Dùng một thìa hỗ hợp này hàng ngày khi đói 2 tuần trước hoặc 2 tuần sau khi có kinh.

Đu đủ xanh

Đu đủ xanh có đặc tính làm co các sợi cơ trong tử cung, vì vậy rất có tác dụng điều hòa kinh nguyệt. Làm nước ép đu đủ từ đu đủ xanh và uống thường xuyên trong vài tháng. Không bảo quản loại nước này quá một tuần trong tủ lạnh. Tốt nhất nên xay tươi mỗi ngày.

Quế

Quế là vị thuốc có tính ấm và nhờ vậy nó được coi là rất hữu ích trong điều hòa kinh nguyệt. Quế cũng có tác dụng giảm đau bụng kinh rất tốt. Cho 1,5 thìa bột quế vào một cốc sữa ấm và đun sôi. Uống sữa này vài tuần cho tới khi thấy những thay đổi tích cực. Bạn cũng có thể uống trà quế, rắc quế vào thức ăn và nhai quế thường xuyên.

Nha đam

Lô hội rất hiệu quả trong điều tiết hormon và đối phó với kinh nguyệt không đều. Bạn có thể uống nước ép nha đam bán sẵn hoặc chiết xuất gel nha đam từ lá nha đam. Trộn một thìa mật ong với gel này. Uống hàng ngày khi đói trong vài tháng

Hạt rau mùi

Hạt rau mùi giúp tăng cường lưu thông kinh nguyệt và điều hòa chu kỳ kinh. Xay khoảng 1 thìa hạt rau mùi cho vào 2 cốc nước và đun sôi 5 - 7 phút cho tới khi nước cạn chỉ còn một cốc. Lọc lấy nước và uống 3 lần 1 ngày trong 3 tới 4 ngày trước kỳ kinh hàng tháng.

Giấm táo

Giấm táo điều tiết hàm lượng đường huyết và cũng giúp điều hòa kinh nguyệt một cách tự nhiên. Lấy 1-2 thìa giấm táo và pha với một cốc nước. Uống 1 lần/ngày trước bữa ăn, trước kỳ kinh.

Sữa bơ và hạt củ cải

Hạt củ cải có tính ấm và giúp điều hòa kinh nguyệt. Xay 2 thìa hạt củ cải, cho vào 1 cốc sữa bơ và khuấy đều. Uống hỗn hợp này mỗi ngày trong vài tháng cho tới khi các triệu chứng cải thiện.

Bạc hà

Bột bạc hà khô rất tốt trong điều trị kinh nguyệt không đều. Trộn một thìa mật ong với một thìa bột bạc hà và sử dụng 3 lần trong ngày trong 1 tháng.

Lá húng quế

Lá húng quế có tác dụng giảm đau tuyệt vời. Uống trà húng quế rất có lợi trong điều hòa kinh nguyệt. Bạn có thể làm trà húng quế bằng cách cho vài lá húng quế vào nước và đun sôi. Cho thêm một chút đường hoặc mật ong. Hoặc có thể giã nát vài lá húng quế tươi và cho thêm mật ong. Rắc một chút hạt tiêu vào hỗn hơp này và uống 1 lần mỗi ngày trong vài tháng.

Hoa dâm bụt

Hoa dâm bụt giúp cân bằng hàm lượng oestrogen và pregesteron trong cơ thể. Nó rất có hiệu quả trong điều hòa kinh nguyệt. Giã nát hoa dâm bụt tươi thành hỗn hợp mịn. Dùng loại hỗn hợp này pha với nước ấm và uống khi bụng đói. Nên uống liền 1 tuần trước khi kinh nguyệt bắt đầu.

Nghệ

Nghệ có tính nóng và cũng là loại thuốc giảm đau tuyệt vời. Sử dụng bột nghệ giúp cân bằng hormon trong cơ thể, điều hòa chu kỳ kinh nguyệt không đều. Lấy 1/4 thìa bột nghệ và cho vào một cốc sữa và uống. Dùng sữa bột nghệ hàng ngày sẽ có cải thiện nhanh chóng.

Mướp đắng

Mướp đắng vô cùng có lợi trong việc kiều hòa chu kì kinh nguyệt. Uống nước mướp đắng 1 hoặc 2 lần/ngày cho tới khi kinh nguyệt ổn định.

BS Cẩm Tú

(Theo Boldsky)

Ðiều trị vô kinh thế nào?

Hà Thị Xuân (Bắc Ninh)

Ðiều trị vô kinh thế nào?

Bình thường, tuổi bắt đầu có kinh ở các bé gái trung bình từ 13-16 tuổi. Ở một số em có thể sớm hơn (10-12 tuổi), có trường hợp lại muộn hơn (17-19 tuổi). Vô kinh là trường hợp người phụ nữ đã hoặc đang ở tuổi có khả năng sinh sản nhưng lại không có kinh nguyệt hằng tháng như các phụ nữ khác. Để điều trị vô kinh hiệu quả, điều quan trọng là các chị em cần phải biết những nguyên nhân chính gây nên vô kinh... Tuy nhiên, đối với các nguyên nhân đơn giản gây nên vô kinh, một vài thay đổi về lối sống và áp dụng những biện pháp khắc phục vô kinh tại nhà là chị em nên duy trì một lối sống lành mạnh vì điều này có ảnh hưởng lớn đến chu kỳ kinh nguyệt: tập thể dục đều đặn và vừa sức mỗi ngày; thực hiện thay đổi chế độ ăn uống để đảm bảo số lượng calo được tiêu thụ mỗi ngày từ tất cả các nhóm thực phẩm thiết yếu; biết cân bằng và dung hòa giữa công việc và gia đình, nghỉ ngơi và giải trí; nếu cần thiết, chị em cũng có thể tham khảo ý kiến bác sĩ về các biện pháp khắc phục tại nhà mà bạn đang sử dụng hoặc đề nghị bác sĩ kiểm tra hoặc cho dùng thuốc hỗ trợ.

Tóm lại, mỗi phụ nữ bị vô kinh đều có nguyên nhân riêng và có khi nhiều nguyên nhân cùng phối hợp. Có những nguyên nhân dù tìm được cũng không có khả năng điều trị. Những nguyên nhân dù có cách chữa cũng phải tùy loại mà chọn biện pháp điều trị thích hợp. Vì thế bị vô kinh nhất thiết phải được các thầy thuốc chuyên khoa khám và điều trị, không tự ý dùng thuốc theo mách bảo của người không có chuyên môn.

BS. Anh Vũ

Điểm danh 5 mỹ nhân nổi tiếng thế giới quyết định “đông lạnh trứng”

Mong muốn là một chuyện nhưng thực tế sinh học lại là một chuyện khác. Khả năng sinh sản không chờ đợi ai, do đó càng ngày càng nhiều số lượng phụ nữ lựa chọn đông lạnh trứng của họ ở tuổi 20 hay 30 với hy vọng rằng sẽ có nhiều lựa chọn hơn trong tương lai. Chuyên gia sinh sản, bác sĩ Daniel B. Shapiro thuộc Hiệp hội sinh học sinh sản nói rằng việc làm đông lạnh trứng trở nên phổ biến và ngày càng nhiều người tìm hiểu về nó. Một số công ty như Apple hay Google đã chi trả chi phí cho nhân viên đông lạnh trứng, song Shapiro hy vọng việc này sẽ trở nên lan rộng hơn.

Về chi phí đông lạnh trứng, nó thay đổi phụ thuộc vào nơi bạn chọn, các chuyên gia ước lượng sẽ cần trả 10.000 USD, cộng với vài trăm USD mỗi năm cho phí lưu trữ. Mặc dù đây là một khoảng phí chi trả khá lớn, nhưng ngày càng nhiều phụ nữ lựa chọn cách thức này, trong đó có không ít người nổi tiếng. Dưới đây là một vài trường hợp những người nổi tiếng công khai quyết định này của họ.

KAITLYN BRISTOL


Ngôi sao của chương trình Bachelorette đã đăng trên Twitter đầu tháng 3 về việc đông lạnh trứng của mình. “Tôi sẽ nắm quyền kiểm soát tương lai của chính mình. Là một người phụ nữ, sẽ luôn có áp lực sinh con, và điều này giúp tâm trí tôi thoải mái hơn khi tôi sẵn sàng”. Kaitlyn sau đó đã chia sẻ trên chương trình Good Morning America rằng đó là một “kế hoạch dự phòng” cho cô và chồng chưa cưới Shawn Booth. Hiện tại cặp đôi chưa có con nhưng họ đã bàn với nhau sẽ sinh 5 đứa.

WHITNEY CUMMINGS


Diễn viên hài và nhà sáng tác Two Broke Girls đã đăng một tấm ảnh lên Twitter. Năm 2016, cô ấy nói với Vanity Fairn quyết định đông lạnh trứng bởi vì “ Tôi đã hẹn hò với nhiều người chỉ bởi vì giống như một thời hạn”. Hiện tại, Whitney Cummings chưa có con nhưng trong buổi phỏng vấn, cô đã nói sẽ rất vui mừng khi có “những đứa trẻ và các chú chó’ trong 10 năm nữa.

OLIVIA MUNN


Nữ diễn viên tiết lộ trên Anna Faris` podcast năm 2016 rằng cô đã đông lạnh trứng. “Tôi đã 35 tuổi và có nguy cơ cao. Tôi nghĩ mọi cô gái nên làm điều đó để không phải chạy đua với đồng hồ nữa. Không phải lo lắng về sinh đẻ, về công việc hay bất cứ thứ gì. Tại sao không khi tôi đã nhìn thấy nhiều phụ nữ đã thực hiện nó. Ngày tận thế cũng giống như mọi ngày bởi vì tôi đã có chuẩn bị trước”. Và khi trả lời cho câu hỏi liệu cô với bạn trai Aaron Rodgers có lên kế hoạch cho một gia đình không, cô ấy đã trả lời “không”.

SOFIA VERGARA


Năm 2013, ngôi sao của Modern Family đã nói với chương trình Good Morning America rằng cô đã đông lạnh trứng với hy vọng có được một đứa con với hôn phu Nicholas Loeb. Theo People, Sofia có một con trai 24 tuổi từ cuộc hôn nhân đầu tiên, kết thúc vào năm 1993. “Tôi muốn chắc chắn họ đã đông lạnh trứng của mình. Tôi đã lấy trứng ra ngoài, chúng hiện trong tủ lạnh. Hy vọng rằng chúng sẽ tươi mới khi tôi sử dụng”. Sofia, khi đó 40 tuổi, nói rằng do tuổi tác nên muốn lên kế hoạch trước để “không có bất cứ điều gì sẽ xảy ra nữa”.

MARIA MENOUNOS

Năm 2016, The E! News chia sẻ trên Snapchatted quá trình lấy trứng của Marian (từ lúc bác sĩ cho vào và lấy trứng ra). “Họ đang bắt đầu tiêm thuốc, mọi thứ đều ổn”, Maria nói trong một clip. Vào năm 2011, cô ấy cũng nói với Drew Pinsky (bác sĩ, người dẫn chương trình talk show) rằng cô ấy muốn đông lạnh trứng như là một “chính sách bảo hiểm”.

Hà Anh

(Theo Women Health)

Biểu hiện u xơ tử cung?

Lanhuong@gmail.com

Do cấu tạo giải phẫu vùng tiểu khung bao gồm: phía trước là bàng quang, giữa là tử cung và sau là trực tràng, do đó khi có kinh nguyệt, tử cung thường to hơn bình thường nên chèn ép vào trực tràng gây đau khi đại tiện và chèn vào bàng quang gây tiểu nhiều lần. Hơn nữa, máu kinh là hiện tượng bong lớp niêm mạc tử cung theo chu kỳ nên khi có sự chảy máu kinh, tử cung sẽ co bóp để tống ra ngoài gây đau bụng dưới. Cảm giác đau ở mỗi người có khác nhau, có người đau nhiều, có người đau ít.

Những người có tư thế tử cung ngả sau thường đau hơn so với tư thế trung gian. Ở những người bị u xơ tử cung cũng có thể gây đau khi đại tiện. Nhiều trường hợp không có triệu chứng. Trường hợp của bạn nếu đau nhẹ, không ảnh hưởng tới sinh hoạt thì bạn cứ yên tâm không cần lo lắng, nhưng nếu đau nhiều kèm kinh nguyệt kéo dài (7-10 ngày) lượng ra nhiều, máu cục... thì rất có thể bạn có u xơ tử cung.

Mặc dù u xơ tử cung là bệnh lành tính nhưng nếu u xơ to có thể chèn ép lên niệu quản gây thận ứ nước; chèn ép bàng quang gây tiểu nhiều lần; ngoài ra có thể là nguyên nhân gây chậm có thai hoặc vô sinh tương đương 27%; dễ sẩy thai, tăng nguy cơ viêm nội mạc tử cung... Để biết chắc chắn, bạn nên đi khám bác sĩ sản phụ khoa, chỉ cần siêu âm qua ổ bụng là biết có u xơ hay không?

BS. Kim Oanh

Thai phụ dùng thuốc chống động kinh có thể không hại đến thai nhi

Thai phụ dùng thuốc chống động kinh có thể không hại đến thai nhi

Theo nghiên cứu này, trẻ có mẹ dùng thuốc chống động kinh khi mang thai không phải đi khám thường xuyên hơn so với những trẻ không bị phơi nhiễm thuốc này.

Các nghiên cứu trước đây cho thấy rằng, dùng thuốc chống động kinh trong thời gian mang thai có thể gây dị tật bẩm sinh ở thai nhi và ảnh hưởng tới não bộ đang phải triển của trẻ.

Nghiên cứu này gồm 963.010 trẻ được sinh trong khoảng từ năm 1997 đến 2012, trong đó có 4.478 trường hợp sử dụng thuốc chống động kinh khi mang thai. Những trẻ là con của các bà mẹ dùng thuốc chống động kinh được đánh giá về số lần phải gặp bác sĩ và dạng khám, ngoại trừ các cuộc kiểm tra và tiêm phòng.

Kết quả cho thấy, trẻ phơi nhiễm với các thuốc chống động kinh chỉ phải gặp bác sĩ nhiều hơn 3% so với những trẻ không bị phơi nhiễm thuốc. Không có sự khác biệt về dạng khám giữa những trẻ phơi nhiễm và không phơi nhiễm.

Đồng tác giả nghiên cứu Anne Mette Lund Wurtz cho biết: “Các kết quả này của chúng tôi làm yên lòng những phụ nữ cần phải dùng thuốc chống động kinh khi mang thai, bao gồm những phụ nữ bị động kinh”. Nghiên cứu được đăng trên tạp chí BMJ Open.

BS P.Liên

(theo Univadis / UPI)

Cách đúng bổ sung canxi cho mẹ bầu

Tôi mang thai tuần thứ 18, thỉnh thoảng thấy đau nhức cơ bắp, bị chuột rút. Mới đây đi khám qua xét nghiệm bác sĩ chẩn đoán thiếu canxi. Xin bác sĩ tư vấn giúp tình trạng này có nguy hiểm không? Bổ sung canxi trong thai kỳ thế nào cho đúng cách?

Đặng Thị Nguyện (Đăk Nông)

Trong thai kỳ nếu thiếu canxi, thai phụ sẽ cảm thấy mệt mỏi, đau nhức cơ bắp, tê chân, đau lưng, đau khớp, chuột rút,... nặng hơn nữa là lên cơn co giật do hạ canxi huyết quá mức. Thai nhi thiếu canxi sẽ dẫn đến suy dinh dưỡng ngay khi còn trong bụng mẹ, bị còi xương bẩm sinh, biến dạng các xương gây dị hình, lùn thấp...

Thai phụ cần cung cấp đủ canxi trong thời kỳ mang thai.

Mỗi ngày trong thời kỳ mang thai, thai phụ cần đáp ứng đầy đủ lượng canxi cần thiết cho cơ thể (đủ 800mg/ngày canxi trong 3 tháng đầu, 1.000mg/ngày trong 3 tháng giữa và 1.500mg/ngày trong 3 tháng cuối và khi nuôi con bú).

Sữa là nguồn cung cấp canxi tốt nhất, hàm lượng tương đối nhiều, tỷ lệ hấp thu cao. Các thức ăn hải sản chứa hàm lượng canxi như: tôm, cua, ngao, sò và trứng... Phô mai, rau màu xanh đậm và trái cây cũng có cung cấp canxi nhưng do hàm lượng axit có trong các sản phẩm này dễ tạo nên các hợp chất canxi khó hòa tan, hiệu quả không bằng các thực phẩm nêu trên.

Để bổ sung đủ canxi, thai phụ phải uống viên canxi theo hướng dẫn của bác sĩ chuyên khoa. Các thuốc có chứa canxi: calci-corbie, calci D, calci sandoz... Để tăng hấp thu canxi, theo khuyến cáo nên uống vào buổi sáng, sau ăn và nên uống cách viên sắt trong vòng 30 phút.

Bác sĩ Ngọc Vân

Sữa mẹ và cách cho con bú

Sữa mẹ là nguồn thức ăn tốt nhất cho trẻ

Sữa mẹ rất thích hợp với trẻ sơ sinh vì chúng có đầy đủ năng lượng và chất dinh dưỡng cần thiết như đạm, đường, mỡ, vitamin, muối khoáng với tỉ lệ thích hợp cho sự hấp thu và phát triển cơ thể của trẻ một cách hợp lý, tránh sự tăng cân quá mức. Nếu trẻ được bú mẹ, trẻ sẽ được lớn nhanh, phòng được tình trạng suy dinh dưỡng, giúp trẻ thông minh, không bị thiếu vitamin A, thiếu máu do thiếu sắt; không bị thiếu chất canxi, phospho...

Cho trẻ bú sữa mẹ đúng phương pháp là một yêu cầu cần thiết

Đồng thời, sữa mẹ cũng là chất dịch thể sinh học tự nhiên chứa nhiều chất kháng khuẩn, tăng cường chất đề kháng cho trẻ, tăng cường thị lực cho mắt của trẻ. Trong sữa mẹ còn có những yếu tố bảo vệ cơ thể cho trẻ mà không thể có loại thức ăn nào có thể thay thế được, đó là các globulin miễn dịch chủ yếu là IgA (immunoglobulin A) có tác dụng bảo vệ cơ thể của trẻ chống lại các bệnh đường ruột và bệnh nhiễm khuẩn; vì vậy trẻ bú được sữa mẹ thường ít khi bị mắc bệnh. Sữa mẹ cũng có tác dụng chống dị ứng vì trên thực tế ghi nhận trẻ bú sữa mẹ ít bị dị ứng và eczema hơn là bú sữa bò.

Ngoài ra, việc cho trẻ bú sữa mẹ rất thuận lợi cho sinh hoạt của người mẹ và phù hợp với điều kiện kinh tế của gia đình. Trẻ bú sữa mẹ thuận lợi cho sinh hoạt của người mẹ vì thực tế không cần dụng cụ, không cần đun nấu và pha chế, không mất thời gian chuẩn bị, không phụ thuộc vào giờ giấc và bất kỳ lúc nào cũng có thể cho trẻ ăn bú được ngay. Trẻ bú sữa mẹ cũng phù hợp với điều kiện kinh tế của gia đình vì không cần phải mua sữa, không cần dụng cụ pha chế sữa để sử dụng như dùng loại sữa bò. Một vấn đề cần được quan tâm là khi người mẹ có chế độ ăn uống, sinh hoạt hợp lý, tinh thần thoải mái thì sẽ có đầy đủ sữa cần thiết cho con bú. Việc nuôi con bằng sữa mẹ cũng là cơ hội, điều kiện để gắn bó tình cảm của mẹ con, người mẹ và con trẻ được gần gũi nhau hơn; đây là yếu tố tâm lý quan trọng cho sự phát triển hài hòa về thể chất và tinh thần của trẻ. Người mẹ nuôi con bằng sữa của chính mình sẽ góp phần ngăn ngừa sự mang thai, hạn chế sinh đẻ trong thời gian nuôi con còn nhỏ do khi cho trẻ bú sữa, tuyến yên sẽ tiết ra chất prolactin có tác dụng ức chế sự rụng trứng, giảm khả năng sinh đẻ, đồng thời giảm được tỉ lệ ung mắc thư vú.

Cách cho con bú sữa mẹ

Bú sữa mẹ là một hoạt động phản xạ tự nhiên của trẻ khi mới chào đời. Tuy nhiên, người mẹ cần phải có kiến thức và hiểu biết cần thiết để cho trẻ bú đúng phương pháp nhằm bảo đảm nguồn sữa mẹ đến được với trẻ một cách đầy đủ và hợp lý.

Sau khi trẻ được sinh ra trong vòng nửa giờ, tốt nhất là người mẹ nên cho trẻ bú sữa ngay; không chờ cho có hiện tượng căng sữa hay xuống sữa mới cho trẻ bú vì việc chờ đợi như vậy sẽ làm cho sữa càng tiết xuống chậm hơn và càng dễ bị mất sữa. Lưu ý cho trẻ bú càng sớm càng tốt vì sữa mẹ được tiết theo cơ chế phản xạ, nếu trẻ càng bú sớm thì càng có tác dụng kích thích tiết sữa sớm; việc trẻ được bú sữa non sẽ có khả năng được bảo vệ tốt và ngăn ngừa sự nhiễm bệnh. Động tác bú sữa của trẻ còn giúp cho người mẹ sớm co hồi tử cung, có tác dụng cầm máu sau khi sinh. Cần cho trẻ nằm gần người mẹ để tạo điều kiện thuận tiện đối với việc cho con bú. Số lần cho trẻ bú sữa mẹ không nên hạn chế, không theo quy định giờ giấc mà nên theo yêu cầu của trẻ kể cả ban ngày lẫn ban đêm. Người mẹ càng ít sữa càng cần cho trẻ bú nhiều để kích thích sự bài tiết sữa của vú.

Khi cho trẻ bú sữa, người mẹ phải ở tư thế nằm hoặc ngồi một cách thoải mái, cho trẻ áp sát vào mẹ, đầu và thân trẻ nằm thẳng, đỡ phần mông nếu trẻ nhỏ. Mặt trẻ quay vào vú mẹ, mũi trẻ đối diện với núm vú, người mẹ có thể dùng tay nâng vú cho trẻ dễ bú. Cằm trẻ phải tỳ vào vú mẹ, miệng mở rộng, môi dưới hướng ra ngoài quầng vú, phía trên miệng nhiều hơn ở phía dưới. Để miệng trẻ ngậm sâu vào quầng đen bao quanh núm vú để trẻ mút dễ hơn. Sau khi trẻ ngậm bắt vú tốt, trẻ sẽ mút chậm và mút sâu. Thời gian bú sữa tùy theo từng đứa trẻ nhưng phải bảo đảm cho đến khi trẻ tự rời vú mẹ. Nếu trẻ bú chưa đủ lượng sữa cần thiết thì chuyển sang vú phía bên kia. Lưu ý nên cho trẻ bú kiệt sữa một bên vú rồi mới chuyển sang vú còn lại để trẻ có thể mút được nguồn sữa cuối của một bữa bú vì nguồn sữa này rất giàu chất béo. Trẻ bú được xem là có hiệu quả nếu thấy vú mẹ căng lên trước khi bú và trở nên mềm ra sau mỗi bữa bú, người mẹ cảm thấy thoải mái và dễ chịu trong khi cho con bú sữa.

Cần nhớ rằng khi trẻ lớn lên từ 4 - 6 tháng tuổi vẫn tiếp tục cho trẻ bú hoàn toàn bằng nguồn sữa mẹ kể cả khi trẻ bị bệnh hoặc bị tiêu chảy. Nếu trẻ bị sinh non, yếu không bú được hoặc mẹ bị ốm nặng hay mắc một số bệnh không thể cho trẻ bú được thì vắt sữa cho trẻ uống bằng thìa. Các nhà khoa học khuyến cáo nên cho trẻ bú kéo dài trong khoảng thời gian từ 18 - 24 tháng hoặc lâu hơn, không nên cai sữa cho trẻ trước 12 tháng.

Khi cai sữa cho trẻ cần chú ý:

Không nên cai sữa cho trẻ quá sớm khi chưa có đầy đủ thức ăn thay thế hoàn toàn các bữa bú sữa mẹ. Không nên cai sữa cho trẻ vào mùa hè nóng nực, trẻ kém ăn. Không nên cai sữa cho trẻ đột ngột vì dễ gây sang chấn tinh thần, làm trẻ quấy khóc, biếng ăn. Không nên cai sữa cho trẻ khi trẻ bị ốm hoặc bị tiêu chảy vì thức ăn thay thế, trẻ chưa có thể thích nghi được sẽ làm tăng rối loạn tiêu hóa, dễ bị suy dinh dưỡng. Sau khi cai sữa, cần có các thức ăn thay thế để bảo đảm đầy đủ chất dinh dưỡng cho trẻ nhất là chất đạm như thịt, cá, trứng, đậu, đỗ...; chất béo như dầu, mỡ và các loại rau quả...

Lời khuyên thầy thuốcNgười mẹ mang thai phải xác định rằng sữa mẹ là nguồn thức ăn tốt nhất cho trẻ trong những tháng năm đầu tiên của cuộc đời khi trẻ được sinh ra. Vì vậy, người mẹ cần có những kiến thức và sự hiểu biết đầy đủ, cần thiết về lợi ích của việc nuôi con bằng sữa mẹ để bảo vệ nguồn sữa cho trẻ từ lúc bắt đầu mới mang thai cho đến khi cho con bú. Cách cho con bú sữa đúng phương pháp cũng là một yêu cầu quan trọng, cần thiết để trẻ có thể tiếp nhận được nguồn sữa mẹ một cách hoàn chỉnh nhằm giúp trẻ lớn lên và phát triển bình thường.

BS. NGUYỄN TR M ANH

Mẹ tăng cân quá ít khi mang thai, con dễ gặp vấn đề sức khỏe tâm thần

Tuy nhiên, tác giả nghiên cứu Euan Mackay thuộc Học viện Karolinska cho biết, các kết quả này chỉ cho thấy mối liên quan chứ không chứng minh quan hệ nhân quả. Bên cạnh đó, theo Viện sức khỏe tâm thần quốc gia Hoa Kỳ, bệnh tâm thần phân liệt khá hiếm, ảnh hưởng tới chỉ khoảng 1% dân số.

Mẹ tăng cân quá ít khi mang thai, con dễ gặp vấn đề sức khỏe tâm thần

Sử dụng thông tin từ đăng ký sức khỏe và dân số Thụy Điển, Mackay và các đồng nghiệp đã thu thập dữ liệu từ hơn 526.000 người, được sinh trong khoảng từ năm 1982 đến 1989. Các nhà nghiên cứu đã tập hợp dữ liệu từ tuổi 13 cho đến hết năm 2011.

Kết quả cho thấy, tại thời điểm năm 2011, gần 3.000 người bị một dạng rối loạn tâm thần, với hơn 700 người bị tâm thần phân liệt. Trong số những người bị các rối loạn tâm thần, khoảng 6% có mẹ tăng cân rất ít khi mang thai. Mackay cho rằng, suy dinh dưỡng có thể đóng vai trò đáng kể trong các kết quả này. Tuy nhiên, không thể loại trừ một số nguyên nhân khác. Ví dụ, tăng không đủ cân cũng có thể chỉ báo một tình trạng sức khỏe ảnh hưởng tới cả bà mẹ và bào thai đang phát triển. Cần nghiên cứu thêm để tìm hiểu mối liên quan giữa cân nặng của mẹ và nguy cơ bệnh tâm thần phân liệt ở trẻ, Mackay gợi ý.

Các tác giả nghiên cứu cũng cho rằng, nguy cơ là thấp do không nhiều phụ nữ bị suy dinh dưỡng trong hầu hết các nhóm dân cư. Thai phụ cũng không cần quá lo lắng về các kết quả này trừ khi họ đang bị thiếu cân ở mức trầm trọng trong quá trình mang thai. Các kết quả này cũng không có nghĩa là bà bầu cần phải tăng cân thật nhiều để bảo vệ con khỏi bệnh tâm thần phân liệt. Trong quá trình mang thai, phụ nữ nên ăn uống lành mạnh và đúng cách, đảm bảo đáp ứng các hướng dẫn về chế độ ăn khi mang thai.

Nghiên cứu được đăng trên tạp chí JAMA Psychiatry ngày 22/2.

BS P.Liên

(Theo Healthday)

Lợi ích bất ngờ về sức khỏe khi sinh con muộn

Hầu hết mọi người đều cho rằng sinh con khi còn trẻ sẽ đảm bảo sức khỏe cho người mẹ và cũng tránh cho trẻ mắc một số bệnh lý về tâm thần, vận động như hội chứng Down, tự kỷ... Tuy nhiên, bên cạnh đó, khoa học cũng chỉ rõ những lợi thế bất ngờ của người phụ nữ lớn tuổi mới sinh con đối với bản thân và con cái của họ.

Lợi ích đối với người mẹ

Sống lâu hơn: Theo một nghiên cứu năm 2016 của 28.000 phụ nữ Hoa Kỳ, những người có con đầu tiên sau tuổi 25 có tuổi thọ 90 cao hơn 11% so với những bà mẹ trẻ hơn. Một nghiên cứu năm 2014 tại Mỹ cũng đưa ra số liệu khẳng định điều này, cụ thể, những phụ nữ sinh con sau tuổi 33 có tuổi thọ 95 cao hơn 50% so với những phụ nữ có con lần cuối khi họ 29 tuổi hoặc ít hơn. Chưa có câu trả lời chính xác cho hiện tượng này nhưng các nhà khoa học giải thích rằng có thể các bà mẹ lớn tuổi hơn trở nên khỏe mạnh hơn sau khi sinh con nên có tuổi thọ cao hơn.Sinh con muộn có thể giúp mẹ trẻ hơn và bé thông minh hơn.

Sinh con muộn có thể giúp mẹ trẻ hơn và bé thông minh hơn.

Thời gian khỏe mạnh kéo dài hơn: Một nghiên cứu tại Mỹ về những bà mẹ đã sinh con sau 50 tuổi bằng hiến trứng cho thấy họ có mức năng lượng và chức năng thể chất tương tự như phụ nữ có con trong độ tuổi 30 và 40. Điều này cho thấy thời gian khỏe mạnh của họ kéo dài hơn so với phụ nữ sinh con ở lứa tuổi sớm hơn.

Có trí nhớ tốt hơn: Theo nghiên cứu của Đại học California (Mỹ), trên 830 phụ nữ sau mãn kinh về trí nhớ, lập kế hoạch, mức độ tập trung, thị giác và thời gian phản ứng thì những người sinh con lần cuối sau tuổi 35 đạt điểm cao nhất về các bài kiểm tra trí nhớ bằng lời (như đọc lại danh sách hay kể lại câu chuyện). Về vấn đề này, các nhà khoa học cũng chưa hiểu rõ tại sao hiện tượng này lại xảy ra nhưng có thể khi những người phụ nữ lớn tuổi có con thì lượng estrogen và progesterone không bị giảm sút mà vẫn giữ ở mức ổn định có tác dụng bảo vệ và phát triển các chức năng của não.

Lợi ích dành cho con

Tình cảm hơn: Đây là phát hiện mới nhất từ một nghiên cứu mới của 4.741 bà mẹ và trẻ em ở Đan Mạch được xuất bản trong tạp chí châu u về Tâm lý học phát triển. Các nhà nghiên cứu đã theo dõi cả mẹ và con của họ theo thời gian và kiểm tra khi trẻ 7, 11, 15 tuổi và phát hiện các bà mẹ lớn tuổi thường sử dụng ít hình phạt hơn bằng lời nói và roi vọt hơn các bà mẹ nhỏ tuổi. Trẻ em của các bà mẹ lớn tuổi cũng có ít vấn đề hành vi, xã hội và tình cảm hơn trẻ em của các bà mẹ trẻ tuổi, ít nhất là ở các điểm 7 và 11 tuổi. Giải thích hiện tượng này, các nhà nghiên cứu cho rằng, ngoài yếu tố thu nhập và giáo dục thì nguyên nhân chính là trẻ được chỉ bảo, dạy dỗ từ những người mẹ lớn tuổi có sự kiên nhẫn và kiên định lớn hơn so với những người mẹ trẻ tuổi.

Cao hơn và thông minh hơn: Theo một nghiên cứu đánh giá về dân số và phát triển năm 2016 của Thụy Điển, các nhà điều tra đã khảo sát 1,5 triệu người, bao gồm cả nam, nữ và phát hiện ra rằng những người sinh ra từ những bà mẹ lớn tuổi thì khỏe mạnh hơn, có điểm tốt hơn khi đi học và có lợi thế ít nhất về chiều cao so với những người sinh ra từ các bà mẹ trẻ tuổi. Về vấn đề này, các nhà khảo sát vẫn chưa đưa ra lời giải thích rõ ràng nhưng đã đưa ra một số giả thuyết: có thể người mẹ lớn tuổi mới sinh con là người có sức khỏe tốt để trải qua thời kỳ mang thai và sinh đẻ khó khăn nên đã truyền những gene mạnh mẽ này cho con của họ; có thể những bà mẹ lớn tuổi là những người trì hoãn việc sinh con để tập trung vào công việc nên họ trở thành người thành đạt và giàu có nên chăm sóc con cái với chế độ dinh dưỡng tốt hơn.

Sinh con muộn có trở thành xu hướng phổ biến?

Mặc dù sinh con khi đã nhiều tuổi, người phụ nữ có thể phải đối diện với những vấn đề khi mang thai như sảy thai, khó sinh... và trẻ được sinh ra từ người mẹ lớn tuổi cũng có nguy cơ về sức khỏe và sự phát triển như nhẹ cân, mắc bệnh tự kỷ, chậm phát triển... nhưng lại đang trở thành xu hướng phổ biến ở các nước phát triển do họ được chăm sóc y tế tốt hơn nên có thể ngăn ngừa được những nguy cơ về sức khỏe cho cả mẹ và trẻ khi sinh ra. Ở Thụy Điển, 25% số trẻ sinh ra từ phụ nữ 35 tuổi trở lên. Ở Đan Mạch, tỷ lệ trẻ em sinh ra từ phụ nữ trên 40 tuổi đã tăng gấp 4 lần kể từ năm 1985. Ở Hoa Kỳ, năm 2000, tuổi của mẹ sinh con lần đầu từ 25-26 tuổi nhưng đến nay đã cao hơn rất nhiều do đặc điểm công việc và lợi thế y tế.

Lê Mỹ Giang

((Theo Health, 3/2017))

5 thay đổi lối sống giúp kiểm soát bệnh lạc nội mạc tử cung

Nguyên nhân chính xác gây lạc nội mạc tử cung vẫn chưa được làm rõ. Nhưng dường như có mối tương quan mạnh mẽ giữa những lối sống và tình trạng này. Những thay đổi lối sống dưới đây sẽ giúp bạn có thể kiểm soát tình trạng lạc nội mạc tử cung:

Đảm bảo giấc ngủ chất lượng

Giấc ngủ đêm tốt có thể khiến bạn trông tươi trẻ và tràn đầy sức sống ngày hôm sau. Thiếu ngủ cấp hoặc mạn tính có thể ảnh hưởng tới hệ nội tiết từ đó dẫn tới thay đổi các mô hình bài tiết hormon. Vì vậy hãy đảm bảo ngủ đủ giấc bằng bất cứ giá nào.

Đừng quên tập thể dục

Vai trò của tập thể dục trong việc làm giảm estrogen dư thừa trong cơ thể đã được chứng minh. Vì vậy hãy duy trì tập thể dục thường xuyên để giảm các triệu chứng bệnh.

Theo dõi cân nặng

Nhiều phụ nữ bị lạc nội mạc tử cung bị thừa cân. Họ được khuyên giảm trọng lượng qua việc duy trì chế độ ăn uống và tập luyện thích hợp. Duy trì nhật kí thực phẩm để tính toán lượng calo hấp thu và tiêu tốn.

Ăn uống đúng cách

Hãy ăn nhiều hoa quả, rau, các loại hạt và chất béo lành mạnh. Tăng cường hấp thu nhiều chất xơ và cảnh giác với những thực phẩm chế biến, đặc biệt là nếu nó chứa monosodium glutamat. Nhớ rằng, ngay cả những thay đổi nhỏ trong chế độ ăn đôi khi cũng có thể tạo ra sự khác biệt lớn trong tình trạng của bạn.

Từ bỏ các thói quen xấu

Tránh xa rượu và giảm sự phụ thuộc vào caffein. Gan chịu trách nhiệm loại bỏ oestrogen dư thừa ra khỏi cơ thể. Rượu làm tăng gánh nặng cho gan, ảnh hưởng tới khả năng hoạt động của gan. Caffein có thể làm tăng hàm lượng oestrogen, gây lạc nội mạc tử cung hoặc làm cho tình trạng bệnh trầm trọng hơn.

Giảm căng thẳng và tăng cường thư giãn

Có thể có mối tương quan giữa stress và lạc nội mạc tử cung. Có nhiều phụ nữ bị stress trong cuộc sống bị lạc nội mạc tử cung. Hãy tìm cách thư giãn hoặc tham gia những hoạt động giảm stress hoặc bằng cách nói chuyện, chia sẻ với bạn bè.

BS Thu Vân

Theo THS

http://www.thehealthsite.com/diseases-conditions/lifestyle-changes-you-can-make-to-manage-endometriosis-k0117/

BS Thu Vân

(Theo THS)

Nhiễm Herpes khi mang thai có thể gây ra triệu chứng bệnh tự kỷ ở trẻ

Herpes là căn bệnh gây ra bởi nhiễm vi-rút, kết quả là gây ra các triệu chứng như đau loét quanh miệng và bộ phận sinh dục, rối loạn thần kinh, sốt…

Có 2 loại nhiễm herpes. Nhiễm Herpes sinh dục lây truyền qua đường tình dục và các vết loét lạnh (một dạng khác của herpes) có thể bị lây truyền qua nước, không khí và các tiếp xúc thể chất khác.

Mụn giộp là một rối loạn nhiễm trùng và đôi khi nó chỉ có thể được điều trị và không thể chữa khỏi.

Bệnh tự kỉ là một rối loạn phát triển nghiêm trọng ở trẻ ảnh hưởng tới khả năng học tập, giao tiếp và tương tác của trẻ.

Một số triệu chứng của tự kỷ là kém phối hợp cơ, tương tác xã hội kém, khả năng học tập kém, rối loạn ngôn ngữ, dễ bị kích động. Tự kỉ cũng là bệnh không thể chữa khỏi.

Nghiên cứu này cho rằng phản ứng miễn dịch của phụ nữ mang thai với vi-rút herpes có thể gây tổn thương thần kinh ở bào thai, dẫn tới bệnh tự kỉ.

Vì vậy, phụ nữ mang thai cần thận trọng, quan hệ tình dục an toàn và phòng tránh vết loét lạnh.

BS Thu Vân

(Theo Boldsky)